Hình tượng trong văn học Gia Cát Lượng

Tranh vẽ Gia Cát Lượng - nhà Thanh.

Nhân vật Khổng Minh Gia Cát Lượng trong tiểu thuyết được hư cấu thành có tài như thần thánh, có thể bấm quẻ đoán trước tương lai, hô mưa gọi gió, dùng lời nói hoặc thư từ để khích chết hàng loạt nhân vật khác như Chu Du, Vương Lãng, Tào Chân... Tuy nhiên, tác giả La Quán Trung vẫn tuân theo kết cục lịch sử là Gia Cát Lượng đã qua đời khi cầm quân Bắc phạt, không thể giúp nhà Thục Hán thống nhất giang sơn. Các thông tin dưới đây được lấy trong tiểu thuyết của La Quán Trung, một số tình tiết không phải thực tế lịch sử.

Ba lượt đến tận lều tranh

Gia Cát Lượng là ẩn sĩ ở Long Trung. Tư Mã Huy và Từ Thứ tiến cử ông với Lưu Bị. Thời đó bậc danh sĩ Kinh Châu lan truyền một câu: "Ngọa Long, Phụng Sồ ai có được một trong hai người ấy sẽ có thiên hạ!". Theo Thủy Kính tiên sinh thì:"Tài của Gia Cát Lượng phải được ví với Lã Vọng làm nên cơ nghiệp 800 năm của nhà ChuTrương Lương làm nên cơ nghiệp 400 năm của nhà Hán.

Từ Thứ, 1 nhân vật có mưu lược, trước khi chia tay Lưu Bị vì trúng kế của Tào Tháo đã tiến cử Gia Cát Lượng cho Lưu Bị. Lưu Bị có hỏi tài năng của Khổng Minh so với ngài thì thế nào, Từ Thứ có nói: "Tôi so với Khổng Minh như ngựa so với Kỳ lân, như quạ so với Phượng hoàng, chúa công có Khổng Minh như Văn vươngLã Vọng, như Hán vương được Trương Lương"

Sau khi Từ Thứ đến với Tào Tháo, Lưu Bị tìm đến Long Trung để thỉnh cầu ông ra giúp nhưng hai lần đầu không gặp mãi đến lần thứ ba mới gặp được nên mới có câu "Lưu Bị tam cố thảo lư câu hiền". Lưu Bị được Lượng nói kế sách định quốc an bang vô cùng kính phục, muốn mời Gia Cát Lượng xuống núi mưu tính đại sự. Gia Cát Lượng thấy Lưu Bị thật lòng cầu xin nên ông chấp nhận làm quân sư cho Lưu Bị. Năm đó Gia Cát Lượng mới có 27 tuổi chính thức bước vào vũ đài chính trị. Tam quốc diễn nghĩa có bài thơ nói về sự kiện này:

Tiếng Hán-ViệtTạm dịch

Hán tặc phân minh trí chẩm biên
Đường đường đế trụ thảo lư tiền
Thùy tri khoảnh khắc đàm tâm xứ
Mưu đắc giang sơn ngũ thập niên

Trên gối, biết ai vua, ai giặc
Bỗng trang hoàng tộc viếng lều con
Ai hay chỉ một giờ tâm sự
Được giang sơn năm chục năm tròn

Gò Bác Vọng quân sư bắt đầu dùng binh

Sau khi Gia Cát Lượng làm quân sư cho Lưu Bị đã góp nhiều công sức xây dựng binh mã tại Tân Dã. Tào Tháo nghe tin, điều tướng đi đánh Tân Dã.

Lưu Bị giao quyền điều binh cho Khổng Minh. Khổng Minh cho quân mai phục chuẩn bị mọi thứ để tiêu diệt quân Tào tại Bác Vọng. Ông cho Triệu Tử LongLưu Bị dụ địch. Hạ Hầu Đôn gần tới đồi Bác Vọng thì thấy Lưu Bị ra đánh rồi rút lui vào thung lũng, cho rằng dù có mai phục ít nên thúc quân tiến vào Bác Vọng. Quân Tào tiến vào rừng tên lửa bắn xuống mịt mù, cây cối hai bên đường cháy to, quân Tào hoảng loạn dẫm đạp lên nhau mà chạy, lương thực toàn bộ bị cháy. Toàn bộ Tào quân bị tiêu diệt, tướng Hạ Hầu Đôn chạy thoát. Từ đó uy tín của Khổng Minh lại càng được nể trọng.

Tam Quốc diễn nghĩa có bài thơ khen Khổng Minh rằng:

Bác Vọng dùng mưu đánh hỏa côngCười cười nói nói vẫn ung dungTào quân nghe tiếng hồn bay bổngRời khỏi lều tranh đệ nhất công.

Hỏa thiêu Tân Dã

Sau trận đồi Bác Vọng, Tào Tháo dẫn đại quân đến Kinh Châu. Lưu Tông và mẹ là Sái thị dâng Kinh Châu cho Tào Tháo. Tào Tháo chiếm được Kinh Châu, đem quân đến Tân Dã truy kích Lưu Bị. Khổng Minh bèn lập kế mai phục quân Tào: sai Quan Vũ dẫn 1000 binh đi mai phục phía bờ sông Bạch Hà, quân lính mỗi người mang sẵn một bao cát đợi khi nghe tiếng ngựa hí thì ngăn nước sông xả nước cho nước cuốn chảy xuống. Ông lại sai Trương Phi mai phục ở Bác Lăng và dặn thấy quân Tào băng qua thì xông ra mà đánh. Cuối cùng ông sai Triệu Vân chia quân ba mặt Ðông, Tây, Nam, chừa phía Bắc cho quân Tào chạy, thấy có hiệu lửa thì xông ra mặt Bắc mà đánh đồng thời lệnh cho quân lính mang đồ dẫn lửa để sẵn trong nhà dân sau khi mọi người đã chạy đến Phàn Thành.

Sau đó, quân Tào do Tào Nhân, Tào Hồng, Hứa Chử kéo đến. Hứa Chử dẫn quân vào rừng gặp Lưu Bị, Khổng Minh, định lên bắt nhưng bị gỗ, đá cản lại. Còn Tào Nhân, Tào Hồng tiến vào thành Tân Dã bỏ trống. Lúc ấy quân Tào tất cả đều mỏi mệt nên nấu cơm ăn để nghỉ ngơi. Đêm đó, quân Lưu Bị tấn công. Tào Nhân thất kinh chạy ra thì thấy cả vùng lửa cháy ngút trời. Tào Nhân, Tào Hồng đang tìm đường thoát thân thì gặp quân của Triệu Vân ùa ra đánh giết. Quân Tào chạy một lúc nữa lại có con sông chặn trước mặt, nhưng nước cạn nên quân Tào không lo nữa, dẫn quân qua sông. Quan Vũ phục ở mé trên, bèn cho quân xả nước xuống, nước chảy xuống như thác vỡ bờ cuốn trôi quân Tào vô số. Tào Nhân, Tào Hồng dẫn tàn binh trốn chạy, bỗng đâu gặp Trương Phi, may nhờ có Hứa Chử đến cứu. Sau đó Lưu Bị, Khổng Minh và các tướng thẳng tới Phàn Thành.

Tam Quốc diễn nghĩa có bài thơ than rằng:

Gian hùng Tào Tháo giữ Trung NguyênTháng chín sang năm đánh Hán XuyênPhong Bá ra oai huyên Tân DãChúc Dung bay xuống Diễm Ma Thiên.

Trận Xích Bích

Khua lưỡi bẻ bọn nho

Khổng Minh chủ trương liên Tôn chống Tào, đã theo Lỗ Túc đi sứ Đông Ngô nhắm xúc tiến việc kết minh. Tuy nhiên nhóm quan văn bên Ngô chủ trương hàng Tào, từng người đều đứng ra đặt câu hỏi nhằm làm khó Khổng Minh. Khổng Minh dựa vào ba tấc lưỡi đánh gãy bọn nho Đông Ngô, sau đó dùng kế khích Tôn Quyền và Chu Du cùng liên minh với Lưu Bị chống lại Tào Tháo.

Việc Gia Cát Lượng sử dụng bài phú Đồng Tước đài để kích động Chu Du đánh Tào Tháo trong Tam quốc diễn nghĩa hoàn toàn là hư cấu. Trận Xích Bích diễn ra năm 207, Đồng Tước đài (銅雀臺) được xây dựng vào mùa đông năm 210[55] gần 3 năm sau khi kết thúc Trận Xích Bích. Bài Đồng Tước đài phú của Tào Thực lại được viết vào năm 212, hai năm sau khi công trình hoàn thành. Như vậy Gia Cát Lượng không thể biết được bài phú viết sau đó 5 năm. Bên cạnh đó, bài thơ trong Tam quốc diễn nghĩa có chứa đựng thêm 7 dòng không có trong bản gốc của Tào Thực được ghi lại trong Tam quốc chí.

Thuyền cỏ mượn tên

Theo Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung Trong trận Xích Bích, Khổng Minh đến Giang Đông giúp đỡ đại đô đốc của Đông NgôChu Du chống Tào Tháo. Chu Du từ lâu biết Khổng Minh là "thiên hạ kỳ tài", để người như vậy sống về sau sẽ là họa cho Đông Ngô nên muốn tìm cách hại ông. Đầu tiên Chu Du sai Khổng Minh dẫn quân đi cướp trại Tào Tháo nhưng ông đã khéo léo từ chối. Sau đó, Chu Du đề nghị Khổng Minh trong 10 ngày làm 10 vạn mũi tên nhưng cố tình dặn thợ tên làm chậm nhằm kết tội Khổng Minh. Nhưng Khổng Minh hẹn trong 3 ngày sẽ làm xong. Chu Du mừng quá bảo Khổng Minh viết tờ quân lệnh. Khổng Minh bèn đến tìm mưu sĩ Lỗ Túc của Đông Ngô mượn 20 chiếc thuyền, mỗi chiếc có chừng ba mươi quân sĩ, trên thuyền dùng vải xanh làm màn che xung quanh, lại bó cỏ với rơm cho nhiều. Lỗ Túc nhận lời, 2 ngày đầu Khổng Minh không làm gì cả. Đến ngày thứ ba, vào đầu canh tư, Khổng Minh bỗng bí mật cho mời Lỗ Túc lên thuyền uống rượu rồi lại sai người lấy dây chạc dài, buộc hai mươi chiếc thuyền liền lại với nhau, rồi bảo quân nhắm bờ phía Bắc thẳng tới.

Hôm ấy, sương mù rất nhiều. Đến đầu canh năm, Khổng Minh tiến sát đến thủy trại của Tào Tháo, Khổng Minh sai thủy thủ dàn ngang đoàn thuyền ra rồi đánh trống, hò reo ầm ĩ. 2 tướng Sái Mạo và Trương Doãn thấy sương mù dày đặc sợ có phục binh nên hạ lệnh cho quân sĩ bắn tên ra loạn xạ. Đợi đến gần sáng, Khổng Minh dẫn quân trở về, 20 chiếc thuyền cắm đầy tên của quân Tào, tính ra hơn 10 vạn. Chu Du trông thấy vô cùng kinh hãi, tự thấy tài kém Khổng Minh rất nhiều. Lỗ Túc hỏi: "Tiên sinh thực là thần thánh. Làm sao lại biết đêm nay có sương mù lớn thế?" Khổng Minh nói: "Làm tướng mà không biết thiên văn, không tường địa lý, không biết được thuật pháp, không hiểu được âm dương, không tính trận đồ, không giỏi binh thế, đó là tướng xoàng. Từ ba hôm trước, ta đã tính biết hôm nay có sương mù lớn, nên mới dám nhận thời hạn ba hôm. Công Cẩn hạn cho ta mười ngày, mà thuyền thợ, đồ dùng không có gì đủ, chực đem một tội lỗi nhỏ để hại ta; nhưng số mệnh ta đã có trời định, hại làm sao nổi!"

Tam Quốc diễn nghĩa có bài thơ khen Khổng Minh rằng:

Sương mù mờ mịt khắp Trường GiangGần xa không rõ nước mênh mangTên bắn như mưa thuyền không núngKhổng Minh tài trí vượt Chu Lang

Thuyền cỏ mượn tên trở thành điển tích nổi tiếng. Khổng Minh chỉ một lần dùng mẹo mà khiến hai kẻ tài trí là Chu Du, Tào Tháo đều mắc lỡm. Ông bỡn cợt trước mưu kế của Chu Du đang tìm cách hãm hại mình, lại chọc ghẹo đại quân Tào Tháo đang lăm le tiến xuống Giang Nam, trước sau đều tỏ rõ phong thái ung dung tự tại vô cùng.

Thực ra, tình tiết này là hoàn toàn hư cấu và không xảy ra ngoài đời thực. Trong Tam quốc chí của Trần Thọ cũng hoàn toàn không đề cập gì tới "Thuyền cỏ mượn tên". Thực tế La Quán Trung chỉ sáng tạo ra nó từ một tình tiết có thật trong trận Như Tu năm 213, khi Tôn Quyền bí mật do thám trại đóng quân của Tào Tháo trên một con thuyền. Tào Tháo ra lệnh cho các cung thủ của mình bắn tên vào thuyền của Tôn Quyền. Những mũi tên đã bị mắc kẹt vào một bên của con thuyền và khiến cho con thuyền có nguy cơ bị lật. Tôn Quyền ra lệnh lái con thuyền theo hướng ngược với bên con thuyền bị bắn. Cuối cùng con thuyền cũng giữ được thăng bằng và Tôn Quyền quay trở lại trại của mình [56]. Chuyện tương tự cũng xảy ra thời Đường khi Trương Tuần dẹp loạn An Lộc Sơn, vào ban đêm bện người cỏ thả xuống tường thành, lấy được 10 vạn mũi tên của Lệnh Hồ Triều.

Mượn Gió Đông

Chu Du muốn đánh hỏa công nhưng mùa đông chỉ có gió tây bắc thổi ngược về phía quân Ngô mà không có gió đông nam thổi về phía quân Tào nên lo lắng thành bệnh. Khổng Minh và Lỗ Túc đến thăm, nói bệnh của Chu Du là tâm bệnh, lại viết phương thuốc cho Chu Du là một bài thơ:

Muốn phá Tào côngPhải dùng hỏa côngMọi thứ đủ cảChỉ thiếu gió đông.

Chu Du xem xong phục Khổng Minh lắm, mới hỏi rằng thế nào mới có gió đông. Khổng Minh xin đi cầu gió đông cho Chu Du nổi lửa đốt trại Tào. Khổng Minh bảo Chu Du hãy truyền xây ngay một đài thất tinh ở chân núi Nam Bình, ông sẽ cầu gió Đông luôn ba ngày ba đêm để giúp Chu Du. Lập tức Chu Du sai cất đài như lời Khổng Minh dặn. Khổng Minh lên đàn thắp nhang, làm phép cầu ba lần, vẫn chưa có gió. Đến canh hai, gió Đông nam thổi tới rất mạnh, quân Ngô nhân cơ hội đó châm lửa phóng hỏa đốt sạch chiến thuyền quân Tào. Khi gió đông tới, Chu Du vừa vui mừng vì sắp đánh thắng quân Tào, vừa kinh sợ vì tài năng "sai khiến cả quỷ thần" của Khổng Minh. Chu Du lập tức ra lệnh cho thuộc cấp tới đài thất tinh để giết Khổng Minh, nhưng khi tới nơi thì ông đã lên thuyền đi mất. Thì ra Khổng Minh đã đoán trước khi gió đông tới, Chu Du sẽ ra lệnh giết mình nên ông đã bí mật gửi thư, dặn dò Lưu Bị cử người tới đón ông vào đúng đêm hôm đó.

Việc lập đài cầu gió Đông Nam chẳng qua chỉ là hành động tung hỏa mù của Khổng Minh nhằm qua mắt Chu Du để tiện việc thoát thân. Điều này thể hiện sự tinh thông thiên văn, thời tiết... của Gia Cát Lượng khi ông có thể đoán trước khi nào gió Đông tới. Nhờ "gió Đông nam của Khổng Minh" mà quân Ngô đại thắng quân Ngụy, Chu Du không bị nỗi nhục mất nước, mất vợ nên về sau thi sĩ đời Đường Đỗ Mục có một bài thơ rằng:

Dưới cát gươm chìm, sắt chửa tiêuRũa mài nhận biết việc tiền triều.Gió Đông nếu chẳng vì Công Cẩn[57]Đồng Tước đêm xuân khóa Nhị Kiều.

Dùng kế bắt Trương Nhiệm

Sau khi Bàng Thống mất, Lưu Bị gọi Khổng Minh vào Tây Xuyên để đánh chiếm Ích Châu. Khổng Minh giao Kinh Châu lại cho Quan Vũ rồi cùng Trương Phi, Triệu Vân vào Tây Xuyên. Khổng Minh muốn chiếm Lạc Thành nhưng có Trương Nhiệm là người đã giết Bàng Thống đang trấn giữ. Ông xem xét địa hình rồi sai Ngụy Diên đem quân phục ở phía đông cầu Kim Nhạn, Hoàng Trung dẫn quân phục phía hữu, Trương Phi phục sẵn quân ở núi còn Triệu Vân thì chờ Trương Nhiệm chạy qua cầu Kim Nhạn thì chặt gãy ngay cầu ấy. Phân công xong, Khổng Minh đích thân đi dụ địch. Trương Nhiệm dẫn Trác Ung ra trận, gặp Khổng Minh liền dẫn quân ra đánh, Khổng Minh bỏ xe lên ngựa chạy qua cầu. Trương Nhiệm đuổi theo một quãng thì gặp Huyền Ðức và Nghiêm Nhan đổ ra chặn đánh. Nhiệm toan quay về thì cầu đã bị chặt gãy. Nhìn bờ phía Bắc thì Triệu Vân chặn, liền chạy vào đường nhỏ thì gặp quân phục của Ngụy Diên, Hoàng Trung. Trương Nhiệm chỉ còn vài chục kỵ binh theo sau chạy vội vào đường núi thì Trương Phi xông ra bắt sống. Trương Nhiệm không chịu hàng nên Khổng Minh sai đem ra chém.

Thạch trận ở Di Lăng

Lưu Bị đem binh phạt Ngô để báo thù cho 2 huynh đệ kết nghĩa Quan Vũ, Trương Phi, kết quả bị Đại đô đốc Lục Tốn dùng hỏa công đánh bại. Khi Lục Tốn dẫn binh truy kích thì gặp phải thạch trận do Khổng Minh bày ở bến Ngư Phúc, Tốn cho rằng đây chỉ là trò lừa nên xông vào trận, cuối cùng bị mắc kẹt. Đang lúc kinh hãi, Tốn gặp được bố vợ Khổng Minh là Hoàng Thừa Ngạn, và được đưa ra khỏi thạch trận. Lục Tốn hết sức kính phục tài năng của Khổng Minh, bèn hạ lệnh rút quân về. Một thời gian sau trận Di Lăng, Khổng Minh nối lại liên minh Thục-Ngô để cùng nhau chống Tào Ngụy.

Phò tá ấu chúa đẩy lui 5 đạo quân

Sau thất bại Di Lăng, Lưu Bị lui về thành Bạch Đế, sức khỏe ngày một kém. Bèn gọi Khổng Minh từ Thành Đô tới để dặn dò hậu sự. Lưu Bị nằm trên giường cầm tay Khổng Minh: "Tài thừa tướng gấp 10 Tào Phi tất yên định nhà nước, làm nên nghiệp to. Đối với con trẫm, nếu có thể giúp thì giúp còn không thì ngươi nên làm chủ Thành Đô". Khổng Minh nghe xong giật mình, phục lạy xuống đất mà thề "thần xin dốc hết sức khuyển mã phò tá thái tử, cúc cung tận tụy đến chết mới thôi".

Hậu chủ Lưu Thiện lên kế vị khi mới 15 tuổi, mọi chuyện lớn nhỏ trong triều do Thừa tướng Gia Cát Lượng giải quyết. Ngụy đế Tào Phi thừa cơ nước Thục suy yếu muốn xuất binh chinh phạt, liền theo kế của Tư Mã Ý khởi 50 vạn đại quân, chia làm 5 đạo đánh Thục. Hậu chủ liền triệu tập quần thần thương nghị kế sách, nhưng Khổng Minh cáo bệnh không ra khỏi phủ. Hậu chủ lo lắng ngự giá đến thăm hỏi, thì bắt gặp Khổng Minh đang ngồi xem cá. Hậu chủ trách Khổng Minh không quản việc quân, trốn trong phủ xem cá. Khổng Minh mời Hậu chủ vào trong nhà, mở bản đồ và phân tích phương án đẩy lui 5 đạo binh một cách bình thản: "Mã Siêu vốn gốc tích Tây Lương, trong mắt người Khương thì Mã Siêu là Thần Oai tướng quân, nay phái Siêu ra trấn thủ ải Tây Bình, dùng 4 đạo quân thay phiên chặn đánh quân Khương. Lý Nghiêm và Mạnh Đạt rất thân, từng kết nghĩa sống chết có nhau, để Lý Nghiêm viết thư cho Mạnh Đạt, tất Đạt giả ốm không chiến. Man Vương Mạch Hoạch có khỏe nhưng kém khôn, lệnh cho Ngụy Diên dùng 2 đạo quân làm nghi binh, cắm thật nhiều quân kỳ trong rừng, quân Nam Man thấy nghi binh tất sẽ không dám tiến. Triệu Vân ra trấn thủ ải Dương Bình chống Tào Chân, nơi này hiểm trở dễ thủ khó công, chỉ cần kiên thủ không đánh thì Tào Chân sẽ cạn lương và rút lui. Quan Hưng và Trương Bào mỗi người dẫn 3 vạn binh đóng ở các nơi hiểm yếu, để tiếp ứng cho các mặt. Phía Đông Ngô thì Tôn Quyền còn hận việc Tào Phi xâm phạm trước kia, nên sẽ không nghe lệnh mà ngồi nhìn thắng bại. Nếu 4 đạo quân thằng thì quân Ngô mới tiến, còn 4 đạo quân thất bại thì sẽ không manh động, chỉ cần phái sứ giả đến phân tích lợi hại để giữa chắc mặt này."

Bảy lần bắt Mạnh Hoạch

Mạnh Hoạch (tiếng Hán: 孟獲) là một tộc trưởng đứng đầu các dân tộc ở Nam Trung, phía nam của Thục Hán, thuộc khu vực ngày nay là Vân Nam, miền nam Trung Quốc. Theo Tam Quốc Diễn nghĩa, Mạnh Hoạch đứng đầu các bộ lạc Nam Man và thường xuyên quấy nhiễu và Gia Cát Lượng đã đích thân dẫn quân đến thu phục Mạnh Hoạch. Và cũng theo chuyện này thì Gia Cát Lượng đã 7 lần bắt được Mạnh Hoạch và tha với mục đích thu phục nhân tâm các bộ lạc khu vực này. Mạnh Hoạch sau đó thề trung thành với Thục Hán. Theo chính sử[cần dẫn nguồn] thì Mạnh Hoạch không phải là người thuộc các bộ lạc Nam Man mà là người Hán.

Sáu lần ra Kỳ Sơn

Sau khi thu phục Mạnh Hoạch, Gia Cát Lượng chỉnh đốn binh mã, nhân Tào Phi vừa mất đem đại quân bắc phạt, ông có tâu với Hậu chủ Lưu Thiện: "Dù biết đánh Tào là lấy yếu đánh mạnh, nhưng nhất quyết phải phạt Ngụy, ta không phạt người ắt người sẽ phạt ta, nay xin Hoàng thượng cho thần đóng quân ở Hán Trung, từ trên cao nhìn xuống như hổ săn Lạc Dương.".

Sau đó, trong 6 lần Bắc phạt mà sau này các sử gia gọi là Lục xuất Kỳ Sơn, ông đều đem đại quân đánh ra Kỳ Sơn vì cho rằng nơi đây chính là đất dụng võ,ông nói:" Kỳ Sơn là đầu xứ Trường An, kéo quân vào các quân Lũng Tây tất cả phải qua đường ấy, vả lại, mé trước sát sông Vị, mé sau dựa vào hang Tà Cốc, ra bên nọ vào bên kia, có thể dùng được kế mai phục. Đó là đất dụng võ, cho nên trước hết ta muốn dụng được chỗ địa lợi ấy.",có thể công phá Trường AnLạc Dương, bình định được Trung nguyên, nhưng tiếc là vì nhiều lý do chưa thể thành công.

Việc Gia Cát Lượng "6 lần đem quân ra Kỳ Sơn" chỉ là sự phóng đại của nhà văn La Quán Trung. Thực tế Gia Cát Lượng chỉ có 5 lần đem quân đánh Ngụy, trong đó ông cũng chỉ đem quân ra Kỳ Sơn lần thứ nhất và lần thứ tư [58].

Không thành kế

Sau khi Mã Tốc để mất Nhai Đình, Gia Cát Lượng về Tây thành, trong thành khoảng 2000 quan văn, cùng Quan Hưng vào 500 lính kị mã. Tư Mã Ý mang 15 vạn đại quân đuổi đến nơi, ông không những không triển khai quân đối phó mà còn mở cổng thành, có ý mời quan quân Tư Mã Ý vào thành. Còn mình thì ngồi trên thành, gẩy đàn rất bình thản. Tư Mã Ý đến nơi, thấy vậy liền sinh nghi, không dám tiến vào thành vì sợ trong thành có bẫy. Tư Mã Ý nghe tiếng đàn của Gia Cát Lượng, thấy được sự bình thản trong con người ông, càng thêm lo sợ và quyết định rút lui. Sau đó Quan Hưng cùng 500 lính phục kích hò reo làm cho Tư Mã Ý sợ có nghi binh nên bỏ chạy. Sau này khi biết được trong thành chỉ có vài trăm binh sĩ già yếu, mà một mình Gia Cát Lượng có thể đẩy lui được đại quân của mình, Tư Mã Ý rất khâm phục và cho rằng mình còn kém tài ông rất nhiều.

Tam Quốc diễn nghĩa có bài thơ khen Khổng Minh rằng:

Gảy đàn ba tấc thắng quân hùngGia Cát Tây thành đuổi giặc hungHơn chục vạn quân lo tháo chạyThổ dân chỉ điểm ở nơi cùng.

Trên thực tế thì giữa Gia Cát Lượng và Tư Mã Ý không xảy ra vụ việc này mà chỉ là hư cấu của La Quán Trung. "Không thành kế" thực sự trong lịch sử xảy ra tại chiến tranh Lưu Tống-Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều. Khi quân Ngụy đuổi theo quân Tống đến Lịch Thành, Thái thú Tế Nam của Lưu Tống là Tiêu Thừa Chi chỉ có vài trăm quân, liệu chừng không thể chống lại đại quân Ngụy, bèn áp dụng "không thành kế", cho mở toang cổng thành. Quân Bắc Ngụy sợ có phục binh không dám vào thành.

Theo bộ sử Tam quốc chí, Gia Cát Lượng đúng là đã có lần ngồi trước doanh trại quân Ngụy rồi ung dung chơi cờ, xung quanh không có binh sỹ hộ vệ mà chỉ có mấy tiểu đồng phục vụ, nhưng quân Ngụy sợ phục binh nên không dám ra đánh (không phải là Gia Cát Lượng ngồi trong thành gảy đàn khi quân Ngụy tới tấn công). Như vậy thì đó là "Không trận kế" chứ không phải là "Không thành kế".

Bắn chết Trương Cáp

Khổng Minh ra Kỳ Sơn giằng co với quân Ngụy, lại hết lương nên sai người về Thành Đô đốc thúc. Quan coi lương là Lý Nghiêm thấy gấp quá không xoay được đủ lương liền báo giả rằng có Đông Ngô sang cướp, Khổng Minh biết tin phải kéo quân về. Quân Thục rút khỏi Kỳ Sơn, đi theo đường Mộc Môn núi Kiếm Các, Khổng Minh lại sai quân cung nỏ phục sẵn hai bên sườn núi, chờ cho quân Ngụy đi qua thì bắn tên tiêu diệt. Quân Ngụy nghe tin quân Thục lui thì nhao nhao xin đánh, lão tướng quân Ngụy là Trương Cáp xin đuổi theo, Tư Mã Ý không cho, Cáp quyết đánh cho kỳ được, Ý bất đắc dĩ phải cho Cáp 5.000 quân làm tiên phong đuổi theo. Trương Cáp đuổi đến đường Mộc Môn, gặp Ngụy DiênQuan Hưng ra đánh, Trương Cáp lần lượt đánh lui hai tướng nhưng lại bị dụ vào Kiếm Các. Khi Trương Cáp đi vào Kiếm Các, quân Thục lấy đá gỗ chẹn đường, quân cung nỏ hai bên bắn ra, khiến Trương Cáp và hơn trăm bộ tướng cùng bị bắn chết ở trong đường Mộc Môn. Tư Mã Ý nghe tin, than rằng: "Để Trương Tuấn Nghệ chết, là lỗi ở ta!".

Tam Quốc diễn nghĩa có bài thơ khen Khổng Minh rằng:

Tên bay tua tủa tựa mưa ràoĐường Mộc Môn kia bắn tướng TàoQua lại ngắm nhìn sườn Kiếm CácQuân sư còn nức tiếng mưu cao.

Trâu gỗ ngựa máy

Khổng Minh nhiều lần ra Kỳ Sơn, hay bị khốn đốn vì hết lương, ông quyết định chọn hang Hồ Lô ở trước núi, mé tây sông Vị làm nơi bí mật, lại kén nghìn tay thợ giỏi để chế ra trâu gỗ, ngựa máy làm máy tải lương. Trâu gỗ ngựa máy trèo đèo lội suối không khác chi trâu ngựa thật, vận lương từ Kiếm Các ra Kỳ Sơn cho quân ăn. Khổng Minh sau đó cố ý để Tư Mã Ý biết được, lại thả cho Tư Mã Ý bắt được một số trâu gỗ ngựa máy. Trọng Đạt bắt chước chế tạo dựa trên mẫu của Khổng Minh, sau đó cho trâu gỗ ngựa máy mới tạo đi vận lương. Khổng Minh hết lương, bèn tìm kế phục kích đuổi quân tải lương của Ngụy đi, sau đó hạ lệnh cho quân sĩ vặn cái chốt dưới miệng trâu gỗ ngựa máy, làm chúng không đi được nữa, sau đó lui quân. Quân Ngụy đuổi đến nhưng không sao bắt trâu ngựa đi được nữa, Khổng Minh nhân lúc này xua quân ra đánh, quân Ngụy thua chạy. Khổng Minh sai người vặn lại cái chốt, trâu ngựa lại hoạt động trở lại, Khổng Minh đem theo trâu gỗ ngựa máy chở lương của quân Ngụy về trại.

Tam Quốc diễn nghĩa có bài thơ khen Khổng Minh rằng:

Núi Kiếm gập ghềnh xưa ngựa chạyHang Tà quanh quất lối trâu điĐời sau nếu biết dùng mưu ấyTải vận nào ai khó nhọc gì.

Vây khốn cha con Tư Mã Ý

Tranh vẽ đời nhà Thanh mô tả cảnh Tư MÃ Ý chạy thoát khỏi Gia Cát Lượng.

Gia Cát Lượng lục xuất Kỳ Sơn, sau nhiều lần đánh nước Ngụy không thành vì có Tư Mã Ý đối trận, biết rằng muốn phạt Ngụy, định Trung Nguyên phải trừ người này, nên quyết tâm giết Tư Mã Ý. Cuối cùng ông dùng kế lừa cho hàng binh nói với Tư Mã Ý rằng toàn bộ lương thực của quân Thục đều cất giữ tại Thượng Phương cốc. Tư Mã Ý cho lính thăm dò thì thấy có vẻ đúng, bèn dẫn hai con mang quân tới. Cha con Tư Mã Ý vừa vào hang thì quân Thục ném rơm rạ, củi lửa chặn bít hai đầu. Gia Cát Lượng liền cho quân phóng hỏa nhằm thiêu chết cha con Tư Mã Ý. Nhưng trong lúc Tư Mã Ý tuyệt vọng chờ chết thì Kỳ Sơn 9 tháng không có mưa bỗng đổ mưa lớn, trận mưa đã cứu cha con Tư Mã Ý và dập tắt hết ngọn lửa, cha con Tư Mã Ý chạy thoát khỏi Thượng Phương cốc. Gia Cát Lượng đau đớn thốt lên "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên", từ đó mà câu nói này trở nên nổi tiếng.

Gia Cát lượng buồn rầu, biết rằng khí số nhà Hán đã tận, trời không giúp ông mà giúp Tư Mã Ý, 1 mình ông khó mà xoay chuyển càn khôn, nghịch lại ý trời, lại thêm ngày đêm lao lực mà sinh bệnh.

Tam Quốc diễn nghĩa có bài thơ than rằng:

Cửa hang gió cát với mây bayMưa xối mây đen kéo lại đâyVũ hầu[59] kế diệu ví thành đạtTấn triều sao chiếm núi sông này?

Dặn kế giết Ngụy Diên

Khi ra Kỳ Sơn lần thứ 6, cho quân đóng ở gò Ngũ Trượng. Quân Ngụy sau nhiều thất bại nên rất sợ Gia Cát Lượng, chỉ đóng cửa cố thủ, tránh giao chiến với quân Thục.

Khổng Minh lâm bệnh nặng, biết thọ mạng của mình sắp hểt. Ông bèn dùng phép dâng sao, trong vòng 7 ngày bày ra 49 cây đèn quay quanh cây đèn chủ mạng nhằm xin trời cao cho kéo dài mạng sống để ông tiếp tục sự nghiệp phục hưng nhà Hán. Nếu sau 7 ngày 7 đêm mà đèn vẫn sáng thì thành công, nếu đèn tắt thì thất bại. Đến ngày thứ 7, Tư Mã Ý nhìn thiên tượng biết Khổng Minh bị bệnh, cho quân đến thăm dò trước trại thách đánh. Ngụy Diên chạy vào trướng báo tin, chẳng ngờ đạp mạnh quá làm tắt ngọn đèn chủ vị, thế là phép dâng sao thất bại. Khương Duy giận lắm, rút gươm muốn giết Ngụy Diên, Khổng Minh cản lại, than rằng: "Số trời đã định, không sao trái được!".

Ông gọi Khương Duy lại truyền thụ 24 thiên binh thư do ông viết ra. Sau đó ông dặn dò các tướng phải đề phòng quân Ngụy tới đánh và Ngụy Diên làm phản cùng kế sách đối phó. Sau Thục chủ sai sứ tới hỏi việc hậu sự, Khổng Minh đáp rằng Tưởng Uyển có thể thay ông làm thừa tướng, sau đó là Phí Y, nói tới đó thì mất, hưởng dương 54 tuổi.

Sau khi Khổng Minh mất, Ngụy Diên quả nhiên làm phản nhưng Khổng Minh đã tiên đoán trước nên bày kế cho Mã Đại chém chết Ngụy Diên. Tư Mã Ý thấy tướng tinh trên trời rơi xuống, đoán rằng Khổng Minh đã mất nên kéo quân tới đánh. Quân Thục làm theo di kế của Khổng Minh, hành quân về phía quân Ngụy và đẩy xe có tượng gỗ Khổng Minh ra trận. Tư Mã Ý tưởng Khổng Minh giả chết lừa mình nên sợ hãi bỏ chạy, chạy một lúc lâu mới hỏi các tướng rằng "đầu mình có còn không". Thế là quân Thục rút an toàn trở về Thành Đô. Sau này trong dân gian có câu: "Gia Cát chết vẫn đuổi được Trọng Đạt sống" (Tử Gia Cát năng tẩu sinh Trọng Đạt), để nói lên tài năng siêu phàm của ông. Sau câu chuyện này, người ta có thơ than rằng:

Nửa đêm sao lớn rơi sờ sờLại còn hồ nghi Lượng chết vờMuôn thuở người Xuyên cười Trọng ĐạtSờ đầu lại hỏi mất hay chưa?

Sau khi Khổng Minh mất, người ta làm theo di chúc là chôn ông ở núi Định Quân (nơi ngày xưa Hạ Hầu Uyên mất), không cần làm ma chay cầu kỳ.